Chuyển đến nội dung chính

Để đảm bảo công bằng xã hội

TT - Chính sách học phí thấp ở giáo dục ĐH trong bối cảnh của VN hiện nay nghe có vẻ nghịch lý, nhưng chính nó đã làm thêm mất công bằng xã hội. GS Phạm Phụ (Trường ĐH Bách khoa - ĐHQG TP.HCM) khẳng định.

Trao đổi với Tuổi Trẻ về đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, giáo sư Phạm Phụ chia sẻ: khi nền giáo dục ĐH đã là đại trà thì không một ngân sách nhà nước nào gánh chịu nổi. Vả lại qua nghiên cứu kinh tế giáo dục ĐH, người ta cho rằng “không có đủ cơ sở triết lý và kinh tế để buộc phải cung cấp tài chính cho giáo dục ĐH bằng ngân sách nhà nước”.

Thưa GS, đề án khẳng định nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổng đầu tư xã hội cho giáo dục, đồng thời vẫn đa dạng hóa và phát huy hiệu quả các nguồn đầu tư khác cho giáo dục...

Ngoài sự khẳng định trên, đề án còn nêu ra một số chủ trương khác như: “có cơ chế, chính sách quy định tỉ lệ đóng góp của người học, xã hội và Nhà nước trong chi phí giáo dục. Đối với những ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, mức học phí được quy định trên cơ sở từng bước bù đắp chi phí, tương ứng với chất lượng đào tạo, ngân sách nhà nước không hỗ trợ, trừ đối tượng chính sách”... Điều này có nghĩa không còn chuyện “học phí được xác định trên cơ sở mặt bằng thu nhập của dân chúng” như trước đây nữa. Do vậy có thể nói đây là cuộc cách mạng trong tư duy giáo dục.

Đề án cũng đưa ra mục tiêu: mức chi (tất cả các nguồn) cho một sinh viên ĐH/năm tối thiểu bằng 1,2 lần thu nhập quốc dân bình quân đầu người/năm. GS có cho rằng mức chi đó đã đủ đảm bảo cho định hướng “đào tạo sẽ chuyển mạnh từ phát triển số lượng sang nâng cao chất lượng”?

Mức chi cho một sinh viên bình quân cho một năm thế giới gọi là “chi phí đơn vị” (unit cost). Mức chi này năm 2004-2005 ở Mỹ đã là 22.000 USD/năm, ở các nước phát triển cao (OECD): 12.000 USD/năm, Đài Loan 7.000 USD/năm. Hiện nay mức chi bình quân này ở nước ta chỉ đạt khoảng 600 USD/ năm, nghĩa là khoảng 0,5 thu nhập quốc dân bình quân/đầu người. Tuy nhiên, không thể so sánh theo con số USD tuyệt đối vì còn phải tính đến trình độ phát triển và theo sức mua của đồng tiền.

Theo ước tính của một số chuyên gia ở Ngân hàng Thế giới, để có điều kiện tài chính tối thiểu nhằm đảm bảo chất lượng, đủ khả năng cạnh tranh về giáo dục ĐH trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh về nguồn nhân lực được đào tạo..., với các nước phát triển thấp như VN, tỉ lệ này cần đến mức 120-150% (các nước phát triển có tỉ lệ thấp hơn).

Năm 2004, chính Ngân hàng Thế giới đã nhận xét: “Chi tiêu bình quân trên đầu sinh viên công lập (ở VN) đạt 53-57% của GDP/đầu người, con số này thấp hơn nhiều so với bình quân của 117 quốc gia trên thế giới có số liệu khoảng 93% GDP/đầu người”. Do đó mục tiêu đặt ra mức chi 120% nói trên trong đề án (khoảng 1.500 USD/năm) có thể xem là con số trung bình cần thiết. Tất nhiên vấn đề luôn phải đặt ra là: hiệu quả trong chi tiêu tài chính, trong cung cấp ngân sách nhà nước, trong tổ chức đào tạo... và không phải là cào bằng với tất cả những ngành nghề và chất lượng chương trình đào tạo khác nhau.

GS có thể nêu một số giải pháp chính?

Đây là bài toán mà thế giới gọi là “chia sẻ chi phí” (cost sharing), có nghĩa chi phí đơn vị sẽ được chia sẻ như thế nào giữa ba nguồn: (a) phần được cung cấp từ ngân sách nhà nước, (b) phần người học phải chi trả (học phí), và (c) phần đóng góp của cộng đồng, kể cả đóng góp của chính các cơ sở giáo dục ĐH.

Theo con số thống kê năm 2002, tỉ lệ ba nguồn nói trên ở VN là: (a) 55%, (b) 42% và (c) 3%. Những năm gần đây, tỉ lệ phần (a) có giảm xuống và phần (b) có tăng lên nhưng không nhiều. Nếu giữ nguyên tỉ lệ này thì khi chi phí tăng lên 2,5 lần ngân sách nhà nước cho giáo dục ĐH cũng phải tăng đến trên hai lần. Mà ngân sách nhà nước cho giáo dục đã lên đến con số 20% trong tổng ngân sách nhà nước, lại còn phải ưu tiên cho giáo dục phổ cập. Vì vậy đây là tính toán không thực tế.

Con đường có lẽ hợp lý cho bối cảnh của VN hiện nay là:

Thứ nhất, đưa tỉ lệ sinh viên tư thục lên đến 35-40% của tổng số sinh viên như đã nêu trong nghị quyết 14/2005/NQ-CP của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục ĐH VN giai đoạn 2006-2020, dồn thêm ngân sách nhà nước cho 60-65% sinh viên ở các trường ĐH công lập. Giữ nguyên tỉ lệ chi cho giáo dục ĐH như hiện nay. Khi đó phần (a) ngân sách nhà nước có thể đóng góp vào chi phí đơn vị 25-30% như ở nhiều nước châu Á (Hàn Quốc, Nhật Bản...). Với thành phần (c), đóng góp của cộng đồng, phấn đấu đạt mức 15% như đã nêu trong nghị quyết 14. Khi đó phần (b), học phí, sẽ chiếm 55-60% (ở Hàn Quốc sinh viên tư thục chiếm đến 75%, nhưng học phí ở ĐH công lập cũng chiếm đến 54% chi phí đơn vị).

Từ đó, giải pháp thứ hai là tăng học phí lên 3-3,5 lần so với hiện nay. Đương nhiên phải có lộ trình. Nhưng chỉ có tăng học phí thì nhiều sinh viên, đặc biệt là sinh viên nghèo, sẽ phải bỏ học.

Do vậy phải có giải pháp thứ ba đi kèm là phát triển các quỹ cho sinh viên vay vốn với lãi suất tương đối thấp, với đối tượng sinh viên rộng rãi hơn và phải có nhiều loại quỹ đa dạng hơn. Đây là một hình thức chuyển sự chi trả cho đầu tư giáo dục ĐH của các gia đình sinh viên từ hiện tại sang tương lai. Thế giới đã có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này. Khi đó tăng học phí mà không làm cho công bằng xã hội trong giáo dục ĐH xấu hơn.

Thứ tư, đồng thời phải có chính sách “học phí cao - tài trợ nhiều”. Và giải pháp thứ năm là minh bạch và hiệu quả trong chi tiêu tài chính cũng như chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục ĐH.

TRẦN HUỲNH thực hiện 
(http://tuoitre.vn/Giao-duc/575160/de-dam-bao-cong-bang-xa-hoi.html)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,