Bếp ăn , từ ngàn xưa đã được người cổ đại sùng bái, sau trở thành biểu trưng của sự no ấm thịnh vượng của mỗi gia đình, là đà phát triển tất yếu của con người. Việc cầu Táo Quân ban cho phước lộc cũng là điều dễ hiểu thôi.
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc.
Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất.
Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau:
Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.
Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.
Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.
Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân (定福灶君), nhưng mỗi người giữ một việc:
Ngày hai mươi bốn tháng chạp thì Táo Thần sẽ lìa thế gian trở về thiên đình để tâu trình kết quả của mỗi nhà trong năm đó. Cho nên, dân gian có tục “Đưa Ông Táo” vào chiều ngày 23 tháng chạp. Việc cúng tiễn Táo Thần dựa vào qui tắc : “Quan tam, dân tứ, đặng gia ngũ”.
Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích "2 ông 1 bà" - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc.
Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do kết quả của thuyết tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất.
Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau:
Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.
Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.
Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.
Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân (定福灶君), nhưng mỗi người giữ một việc:
- Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân
- Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
- Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần
Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Sở dĩ Táo Thần được nhân gian kính trọng là vì, ngoài bổn phận cung cấp thức ăn để nuôi sống con người, Ngài còn có chức trách theo dõi sinh hoạt tốt xấu của người trong nhà nữa. Thế nên, Ngài có hai vị phụ tá, một vị là “Thiện Quán” (xem xét việc tốt), một vị là “Ác Quán” (xem xét việc xấu) của con người để ghi chép lại. cuối năm tổng kết cho Táo Quân về trình tấu với NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ . Trong sách “Kính Táo Toàn Thư” nói, “Táo Thần hưởng nhang khói của một nhà, gìn giữ sức khỏe cho người trong gia đình, theo dõi việc thiện ác của nhà đó, tâu trình công hay tội của nhà đó” (thụ nhất gia hương hỏa, bảo nhất gia khang thái, sát nhất gia thiện ác, tấu nhất gia công quá) . Theo thuyết nói rằng, nếu bị Táo Thần cử tội lên thì NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ giảm thọ cho người đó, nếu nặng thì bị giảm thọ ba trăm ngày, nhẹ thì giảm thọ một trăm ngày.
Bàn thờ Táo Quân thường đặt gần bếp, trên có bài vị thờ viết bằng chữ Hán. Bài vị bằng gổ viết “Đông Trù Tư Mệnh Định Phước Táo Quân Chi Thần Vị” hay “Định Phước táo Quân”. Hai bên có hai câu liễn: Thượng thiên ngôn hảo sự – Hạ giới bảo bình an” (Lên trời tâu việc tốt—Xuống phàm hộ bình an). Hình ảnh Táo Thần tùy nơi mà vẽ khác nhau. Thường thì vẽ hình hai vợ chồng gọi là “Táo Vương Gia” (ông vua táo) và “Táo Vương Nãi Nãi” (mẹ táo). Lại có những nơi chỉ họa một vị thôi, gọi là “Độc Tọa táo Vương” (một vua Táo ngồi).
- Quan là chỉ cho những nhà quan chức quyền quí, tập quán cúng tiễn vào ngày 23.
- Dân là chỉ cho bá tánh bình thường, cúng tiễn ngày 24.
- Đặng gia là chỉ cho giới cao cấp thượng lưu, cúng tiễn ngày 25.
Nhưng thường trong dân gian lại dùng ngày 23 để cúng tiễn, là vì hy vọng “lấy hơi quan” để nhà mình được phát đạt. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Công lên chầu trời nên có nơi gọi ngày này là "Tết ông Công", lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời.
Phẩm vật để cúng tế Táo Thần thường là những thức vừa ngọt vừa dẽo như là dưa hấu, kẹo mạch nha, kẹo kéo, bánh da lợn…Dụng ý là để cho thức ăn còn dính vào miệng của ông Táo, khi Táo Thần về trời chỉ tâu những điều tốt lành “ngọt ngào” của người nhà thôi! Thế nên có câu “Ngật điềm điềm - Thuyết hảo thoại” (ăn ngọt ngọt, nói việc tốt) và câu “Hảo thoại truyền thượng thiên - Hoại thoại đâu nhất biên” (Nói tốt trình lên trời, việc xấu tránh qua bên).
Ngoài ra, cũng để “trám miệng” Táo Quân, người ta cũng thường cho ông uống một loại rượu đặc sản, dùng riêng cúng ông Táo, gọi là “Túy Tư Mệnh” ( Ông Táo say). Mục đích là cho ông Táo say mèm, quên đầu quên đuôi, chẳng nhớ gì mà tâu trình !!! Do đó, cúng tế Táo Thần có ý nghĩa là “cầu phước tránh họa” vậy.
Khi cúng tiễn Táo Quân, dọn bày phẩm vật ra, đốt hương để cúng, châm rượu lần thứ nhất, khấn vái cầu xin điều gì, tiếp theo châm rượu lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Xong, gở tấm tượng Táo Quân cũ xuống, kèm với hình con ngựa và giấy tiền vàng bạc đốt chung, hoàn thành lễ đưa tiễn Táo Quân về trời.
Cần nhớ là vì đốt con ngựa cho Táo Quân cỡi, thì phải nhớ kèm theo cỏ khô và đậu nành để làm thức ăn cho ngựa. Như vậy thì Táo Thần và ngựa đều có đầy đủ lương thực và thực phẩm cho cả hai, đủ sức đi về trời. Ngoài ra, cần nhớ khi đốt hình tượng ở ngoài trời xong rồi, phải nhặt lấy ít tro của đặt vào bình, mang đến trước bàn thờ ông Táo van vái:
“ Thượng thiên ngôn hảo sự - Hồi cung giáng bình an” (lên trời tâu việc tốt—trở về hộ bình an), đại khái là những lời vái như thế , ý cầu xin Ngài đừng tâu việc xấu và khi trở về phù hộ độ trì cho toàn gia đình được bình an may mắn, tránh khỏi những việc không hay cho gia đình mình.
Sau lễ tiễn đưa ông Táo rồi, đến ngày mùng bốn tháng giêng phải nhớ làm lễ rước Ngài về. (có nơi cúng vào đêm giao thừa) gọi là lễ “Tiếp Táo” hay “Tiếp Thần” (đón thần Táo). Lễ nầy rất đơn giản, treo hình tượng mới của Táo Quân và hình con ngựa mới, tượng trưng là Ngài đã trở về đến nhà, trấn thủ trong gia đình để tiếp tục phù hộ và giám sát việc thiện ác.
Việc đưa tiễn Ông Táo thì không nên làm trước ngày 14 tháng chạp, chọn được ngày tốt theo lịch Thông Thắng (ngày nào có ghi nên:- tế lễ, cầu phước là được. Hoặc là chọn ngày có Thiên đức, Nguyệt đức, Tam hợp, Thiên hỉ …)
Phẩm vật cúng tế gồm có
- 3 cây nhang trầm hương hoặc hổ phách (loại nhang nầy có mùi thơm đậm,cúng thần rất tốt, truyền thuyết nói rằng mùi thơm của nó có thể bay thấu lên trời)
- 3 chung rượu hâm nóng (vì trời lạnh)
- 2 cây đèn cầy đỏ
- 3 chung hồng trà
- 3 đôi đũa
- 3 cái chén
- 1 dĩa rau
- 8 miếng mức hoặc một bình mạch nha.
- 8 dĩa trái cây hay đường miếng (phương đường)
- 1 khổ thịt luộc (nếu là Phật tử thì miễn cúng thịt, giới sát)
- 8 miếng xôi vị (thang hoàn 湯丸=?) (tương truyền khi ông Táo ăn xôi vị thì tiếng nói không còn trong trẻo, nên Ngài ngại không dám nói nhiều để tâu trình Ngọc Hoàng)
- Áo mão Táo Quân, giấy tiền vàng bạc , giấy vàng khối …
Nghi thức cúng:
- Bày phẩm vật trước bàn thờ Táo Quân.
- Đốt đèn, xá ba xá, cặm đèn lên bàn.
- Đốt nhang, xá ba xá cắm lên lư hương
- Quì xuống chấp tay lên ngực, miệng khấn vái ba ý là cảm tạ ơn Ngài phù hộ suốt năm; Kính tiễn Ngài về trời (đừng tâu việc xấu); Khi trở về xin phù hộ sức khỏe dồi dào, công việc làm ăn thuận lợi v.v…
- Ở chỗ lư hương có đặt miếng đường hoặc miếng nhỏ xôi vị
- Đốt áo mão và giấy tiền vàng bạc như trên…
Việc thắp hương cho ông Táo thường thì vào hai lần sáng chiều, có nơi chỉ thắp vào buổi chiều tối. Chỗ thờ Ông Táo tốt nhất là đặt vào vách tường phía Nam của nhà bếp. Có chỗ nói là “đông trù” nên đặt ở vách tường phía Đông.
Táo Quân là vị thần gần gũi và rất quan trọng trong gia đình, cần phải thờ phụng nghiêm chỉnh, cúng bái thành tâm, chứ không nên xuề xòa bắt chước theo người cho có lệ. Nhất là đứng quá dễ dãi mua đại tấm bài vị thờ Táo Quân rồi đặt chỗ nào tùy thích thì không được.
Bàn thờ Táo Quân phải ở chỗ khang trang, sạch sẻ, cao hơn đầu mình. Cung kính lễ bái theo ý “kỉnh thần như thần tại” thì Ngài Định Phước Táo Quân mới phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình được bình an mạnh khỏe, tăng long phước thọ.
Nhận xét
Đăng nhận xét