Chuyển đến nội dung chính

Bất ổn kinh tế và vấn đề xã hội



(TBKTSG) - 2013 là năm thứ năm liên tiếp tăng trưởng kinh tế của Việt Nam rơi vào suy giảm. Mặc dù lạm phát không còn là nỗi ám ảnh thường trực như trong giai đoạn 2007-2008 hay 2011, song nền kinh tế trong năm 2013 không chỉ tăng trưởng chậm (ước đạt 5,4%) mà còn tỏ ra thiếu sức sống, thậm chí suy kiệt, thể hiện qua con số trung bình gần 5.000 doanh nghiệp dân doanh giải thể hay dừng hoạt động mỗi tháng.

Cũng trong năm 2013, các chương trình tái cấu trúc được triển khai chậm chạp và thiếu hiệu quả, làm cho hy vọng về sự phục hồi tăng trưởng ngày càng trở nên xa vời. Trong bối cảnh này, có thể thấy trước rằng ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự của Chính phủ trong năm 2014 vẫn sẽ là tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu và phục hồi tăng trưởng kinh tế.

Trong khi bị chi phối bởi vô số các ưu tiên trước mắt, đặc biệt là các vấn đề kinh tế, người ta có thể không đánh giá hết được hệ lụy của nhiều vấn đề xã hội đã đặc biệt trở nên nhức nhối trong mấy năm gần đây. Biểu hiện của các vấn đề này ngày một nhiều, không những thế càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần nhìn vào những ngành, những lĩnh vực vốn được coi là có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ “lương tâm của xã hội” như thầy giáo, thầy thuốc, tôn giáo, tâm linh, tòa án, công an, báo chí thì cũng có thể thấy rõ tình trạng này.

Một số người có thể vội vàng quy kết những vấn nạn xã hội này cho kinh tế thị trường. Thế nhưng nếu suy xét kỹ thì chúng ta sẽ thấy sự quy kết này là thiếu cơ sở. Một nền kinh tế thị trường đích thực sẽ không dễ dàng làm hại rồi ngang nhiên quẳng xác khách hàng xuống sông để phi tang. Rồi những sai trái trong các giao dịch phi thị trường (như tìm hài cốt liệt sĩ hay điều tra thủ phạm giết người) hay ít tính thị trường (như đào tạo ở đại học công lập hay xét nghiệm y tế ở bệnh viện công) hiển nhiên cũng không thể đổ tại kinh tế thị trường mà chỉ có thể bắt nguồn từ lòng tham và sự bất nhân. Mặc dù lòng tham có thể là một tính xấu phổ biến của con người, nhưng sự bất nhân không hề có tính phổ quát, trái lại nó đến từ sự sa đọa của bản thân con người và/hoặc từ niềm tin là một người có thể phạm tội mà không bị phát hiện, và/hoặc nếu bị phát hiện thì cũng không bị trừng phạt một cách tương xứng - tất cả đều không phải là hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường.

Một số người cho rằng nhiều vấn nạn xã hội, đặc biệt liên quan đến tội phạm, đơn giản chỉ là “bần cùng sinh đạo tặc”. Tất nhiên là có một phần sự thật trong câu nói được lưu truyền trong dân gian này. Tuy nhiên, cần nhớ rằng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2008-2013, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn tăng trung bình gần 10%/năm theo giá cố định. Như vậy, nếu quả thực “bần cùng sinh đạo tặc” thì vấn đề không phải là do mức sống chung của xã hội thấp đi, mà là do kết quả kinh tế đã bị phân bổ không công bằng giữa các nhóm dân cư trong xã hội.

Một số người khác lại cho rằng những vấn đề xã hội bắt nguồn từ hệ thống thể chế - mà theo GS. Douglass North, người được giải Nobel Kinh tế năm 1993 - bao gồm hệ thống các quy tắc thành văn (bao gồm hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật), các quy tắc bất thành văn (như phong tục, tập quán), và các cơ chế cưỡng chế thi hành các quy tắc này.

Rất tiếc là cho đến nay chúng ta có quá ít các điều tra và nghiên cứu xã hội nghiêm túc để có thể chỉ ra ngọn nguồn của những vấn đề xã hội nổi cộm cùng những hệ lụy của chúng. Tình trạng này càng trở nên trầm trọng khi người ta thường có xu hướng chăm chú nhiều hơn vào các vấn đề kinh tế, đặc biệt là các vấn đề có tính tình thế, kỹ thuật, thậm chí không thực chất.

Lịch sử dạy chúng ta rằng khi kinh tế đi xuống, có thể chỉ cần vài năm để hồi phục, song một khi niềm tin bị mất, lòng người không yên, nhân tâm ly tán thì ngay cả vài thập kỷ cũng không biết có đủ để khôi phục hay không, mà đây chính là những nền tảng để một xã hội có thể phát triển. Như vậy, để giảm thiểu chi phí xã hội trong quá trình phát triển ở Việt Nam, các vấn đề xã hội cần được đặt vào đúng vị trí của chúng trong chương trình nghị sự của Chính phủ, trong chương trình nghiên cứu của các trường và viện nghiên cứu, và trong sự quan tâm của xã hội nói chung.

Vũ Thành Tự Anh - Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,