Chuyển đến nội dung chính

Quản trị rủi ro

(TBKTSG) - “Hãy nói cho tôi biết bạn quản lý rủi ro ra sao, tôi sẽ nói ngân hàng bạn thế nào?” - Tiến sĩ S. L. Srinivasulu, Chủ tịch tập đoàn KESDEE Inc - nơi cung cấp các giải pháp học tập trực tuyến (e-learning) về tài chính có trụ sở tại California, Hoa Kỳ - nói như vậy để mở đầu câu chuyện về quản lý rủi ro trong ngân hàng với TBKTSG. Dù nền kinh tế thế giới đang hứng chịu hậu quả của sự “sơ suất” trong công tác quản lý rủi ro của các ngân hàng, song điều ông Srinivasulu muốn nói là: Hãy quay về những gì đơn giản nhất.


Từ lâu, công tác quản trị rủi ro được xem như là một chức năng nhằm thỏa mãn yêu cầu tuân thủ pháp chế và kiểm soát nội bộ. Dưới góc nhìn này, rủi ro được xem như là “điều không mong muốn nhưng phải chấp nhận” trong kinh doanh, và hoạt động quản lý rủi ro được coi là một trung tâm chi phí. Ông Srinivasulu cho rằng các ngân hàng nên chuyển hướng tiếp cận ngược lại: Quản trị rủi ro tốt chính là một nguồn lợi thế cạnh tranh và là một công cụ tạo ra giá trị, cũng góp phần tạo ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn.
Làm thế nào để vượt qua mô hình quản lý rủi ro cũ gắn với tuân thủ để đi tới mô hình quản lý rủi ro mới nhằm tạo giá trị? Hãy xây dựng một “văn hóa rủi ro” trong toàn bộ tổ chức của bạn, ông Srinivasulu đưa ra lời khuyên.
“Hơn lúc nào hết, các ngân hàng Việt Nam cần phải chủ động trong phòng ngừa rủi ro. Tính minh bạch cũng như các rủi ro từ nợ xấu của hệ thống ngân hàng vẫn sẽ là một trong các vấn đề trọng tâm trong năm 2009”, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, bà Dương Thu Hương, nói tại hội thảo “Thành lập ngân hàng dữ liệu và phòng ngừa rủi ro tác nghiệp”, diễn ra hồi tháng 1-2009.
Các chuyên gia cũng cho rằng các số liệu hiện có về hệ thống ngân hàng có thể chưa phản ánh hết tình hình. Với các khó khăn của nền kinh tế và sự đình đốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tỷ lệ nợ xấu có thể cao hơn và rủi ro thực tế sẽ lớn hơn đối với hệ thống ngân hàng, nhất là khi được đo lường bằng các chuẩn mực quốc tế.
“Công việc hàng ngày, nhất là các việc liên quan đến phê duyệt, bất cứ cái gì cũng là quản lý rủi ro”, Tổng giám đốc Phan Đào Vũ của Ngân hàng TMCP Bảo Việt, người đã có gần 30 năm làm quản lý trong ngành ngân hàng nói.


Rủi ro từ hệ thống hay còn gọi là rủi ro tác nghiệp, tức do hệ thống và yếu tố con người. Rủi ro thị trường chủ yếu đến từ hai biến động cơ bản là lãi suất và tỷ giá. Nguồn thu lớn nhất của các ngân hàng Việt Nam hiện là từ kinh doanh tín dụng nên rủi ro lớn nhất cũng từ tín dụng. Sau đó mới tới rủi ro hoạt động (tác nghiệp) và rủi ro thị trường.
Ông Phan Đào Vũ cho rằng tuy các ngân hàng Việt Nam mới chú trọng đến rủi ro tín dụng nhưng rủi ro thị trường sẽ là vấn đề rất lớn trong thời gian tới. “Khả năng lường trước rủi ro của chúng ta còn yếu, ý thức về rủi ro yếu, và hành động thì mới dừng ở các quy định của Basel I và II”, ông nói.
Việc để cho một thủ quỹ biển thủ hàng tỉ đồng, hay một trưởng quỹ tiết kiệm có thể vay ngân hàng hàng trăm tỉ đồng như đã xảy ra có thể xếp vào rủi ro tác nghiệp, song kết cục cũng là rủi ro tín dụng. Cũng có những ngân hàng tự nhiên mất thanh khoản vì tin đồn. “Một tổn thất xảy ra với tổ chức tài chính không phải một loại rủi ro mà là tổng hợp nhiều loại rủi ro”, Tiến sĩ Srinivasulu phân tích. Ông nói: “Điều quan trọng nhất với các ngân hàng vẫn là quản trị, và hài hòa các mối quan hệ. Nếu quan hệ không chuẩn thì sự vận hành không chuyên nghiệp được”.
Người đã có những thời điểm làm ra tới 50% lợi nhuận của Ngân hàng Citi tại Việt Nam, Chủ tịch tập đoàn đầu tư IPA và Tổng giám đốc của Công ty Chứng khoán VNDirect, bà Phạm Minh Hương, nói rằng kinh doanh tiền là kinh doanh rủi ro. Thị trường luôn khắc nghiệt mà rủi ro thì muôn hình vạn trạng. Với một định chế tài chính, mảng kinh doanh càng rủi ro lại càng có thể tạo sức bật lớn. Các định chế tốt nhất coi công cụ phái sinh như con dao hai lưỡi. Khi anh đã chấp nhận áp dụng các đòn bẩy tài chính thì anh phải nắm được nó, đưa nó thành sức bật của mình.
Và chính vì thế, bà Hương cho rằng nghề tài chính nói riêng và nghề kinh doanh nói chung yếu tố quyết định là ở con người. Người giỏi đánh giá đúng cơ hội, để đúng người đúng việc. Việc quyết định nhân sự chính xác rất quan trọng cho một định chế tài chính, song hiệu quả lại không chỉ nhờ vào một người.
Không liều thì không có lợi nhuận nhưng quan trọng là phải tự lựa chọn rủi ro trong sức chịu đựng của mình. Các định chế tốt là các phòng ban và các bộ phận phải thường xuyên liên lạc, cùng phối hợp như bản đồng ca hòa theo bản nhạc. Người quản lý tốt phải nuôi nấng được văn hóa quản trị rủi ro trong toàn bộ tổ chức.
Kế toán nhìn về quá khứ nhưng quản lý rủi ro là hướng tới tương lai. Người quản lý rủi ro cần hiểu sự ảnh hưởng của rủi ro thị trường lên chất lượng tài sản của mình, và tương tự, người quản lý rủi ro thị trường cần hiểu rõ rủi ro tín dụng trong danh mục phái sinh của khách hàng. Chính rủi ro thị trường của người đi vay sẽ tạo ra rủi ro tín dụng của người cho vay. Chuyện gì xảy ra với chất lượng tín dụng và tài sản của bạn nếu có biến động xảy ra với tỷ giá, lãi suất, giá hàng hóa nguyên liệu, thị trường nói chung? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một biến số của thị trường thay đổi, như giá dầu, lãi suất, giá sắt thép tăng? Hãy nghĩ tới những điều bạn chưa bao giờ nghĩ tới và hãy lên kịch bản chi tiết về mọi thứ, ông Srinivasulu khuyên.
Bài học từ khủng hoảng kinh tế hiện nay là hãy trở lại những điều cơ bản, hãy minh bạch hơn và hãy dùng các công cụ tài chính đơn giản, hãy tính đến những rủi ro tín dụng của đối tác, rủi ro thanh khoản và các chương trình của Chính phủ. Quản trị rủi ro không thể chạy theo mốt, phải đơn giản mà thông minh, càng đơn giản hóa càng dễ xử lý.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,