Chuyển đến nội dung chính

Chủ tịch công ty cũng phải chuyên nghiệp

(TBKTSG) - Trong nội bộ doanh nghiệp, chủ tịch công ty (chủ tịch hội đồng quản trị với công ty cổ phần; chủ tịch hội đồng thành viên với công ty TNHH…) đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, guồng máy của doanh nghiệp sẽ hoạt động không hiệu quả, thậm chí rối loạn nếu vai trò ấy bị hiểu sai, hiểu nhầm và dẫn đến hành xử không đúng.

Chủ tịch công ty, theo cách hiểu khá phổ biến lâu nay, đồng nghĩa với “ông chủ” và là người sáng lập ra doanh nghiệp. Chính vì thế, ở nhiều doanh nghiệp, sáng lập viên nào có số vốn sở hữu cao nhất thì nghiễm nhiên trở thành chủ tịch.
Theo một nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp của ông Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương), ở các công ty cổ phần hiện nay rất nhiều trường hợp chủ tịch hội đồng quản trị (HĐQT) kiêm luôn vị trí giám đốc điều hành và là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Ngoài ra, đa số thành viên hội đồng quản trị là những cổ đông lớn, chưa có sự tách biệt rõ giữa chủ sở hữu và người quản lý. Theo ông Cung, đối với công ty cổ phần, điều này có những ưu điểm nhất định nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ rất lớn về mặt quản trị khi quyền lực công ty tập trung vào tay một hoặc một số cổ đông.
Đó là nguy cơ lạm dụng quyền lực, thiên về điều hành hơn là quản lý chiến lược, giám sát không tương ứng với quyền lực… Chưa kể, việc chọn vị trí chủ tịch công ty dựa trên yếu tố vốn sở hữu còn có thể dẫn đến rủi ro chọn nhầm người không có năng lực, phẩm chất, từ đó gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho công ty.
Theo ông Giản Tư Trung, Chủ tịch HĐQT trường Doanh nhân PACE, không chỉ việc chọn lựa ai làm chủ tịch công ty mà việc xác định chủ tịch công ty phải làm những công việc gì cho đúng với vị trí của mình sau khi được lựa chọn cũng là vấn đề không kém phần quan trọng.
Ông Trung cho rằng một hiện tượng đang xảy ra khá phổ biến là sự nhầm lẫn giữa vai trò của chủ tịch với vai trò của giám đốc điều hành. Có nơi lúng túng không biết chủ tịch làm gì và giám đốc làm gì nên công việc cứ giẫm chân lên nhau. Có nơi, chủ tịch làm thay công việc của giám đốc điều hành, kể cả công việc của giám đốc tài chính, giám đốc nhân sự. Có trường hợp giám đốc muốn chi vài trăm ngàn đồng cũng phải xin chủ tịch HĐQT duyệt.
Giới kinh doanh gần đây cũng đồn đại về trường hợp một tổng giám đốc sau ba tháng đầu quân cho một công ty khá nổi tiếng ở TPHCM đã phải… xin rút lui mặc dù mức lương rất hấp dẫn. Vị tổng giám đốc buộc phải xin nghỉ việc vì ông không thể phát huy hết năng lực của mình trong một bộ máy mà chủ tịch HĐQT thì chỉ đạo một đằng, vợ của chủ tịch với chức vụ phó tổng giám đốc lại yêu cầu một nẻo. Nhưng hiện tượng bị lấn sân, thiếu thực quyền không chỉ với các giám đốc mà gần đây còn xảy ra với cả chức danh chủ tịch công ty. Có không ít trường hợp một người được mời giữ chức chủ tịch của năm, bảy công ty, tuy nhiên họ chỉ mang danh cho có hình thức, còn quyền hành lại nằm trong tay một số nhân vật đứng đằng sau.
Theo ông Trung, cả hai trường hợp: chủ tịch công ty có quá nhiều quyền, thậm chí can thiệp, làm thay công việc của giám đốc, và ngược lại không có thực quyền, đều không tốt cho doanh nghiệp. “Một bộ máy hoạt động hiệu quả phải là một bộ máy trong đó mỗi bộ phận làm đúng và làm tròn phận sự, chức trách của mình”, ông Trung nói.

Vậy, chủ tịch công ty thực chất là ai, họ đảm nhiệm sứ mệnh gì ở doanh nghiệp?
Theo ông Trung, để trở thành chủ tịch công ty, tiêu chí hàng đầu là phải có năng lực, phẩm chất, cả về chuyên môn lẫn đạo đức, vì nếu thiếu những điều kiện này thì họ sẽ không thể cùng với HĐQT hoặc hội đồng thành viên (HĐTV) hoàn thành nhiệm vụ được giao cho dù họ có tỷ lệ vốn sở hữu cao bao nhiêu trong công ty. Vì vậy, chủ tịch công ty không nhất thiết phải có nhiều vốn mà có thể chỉ chiếm một tỷ lệ vốn nhỏ trong công ty hoặc thậm chí có thể là người bên ngoài được thuê về làm nếu họ thực sự “chuyên nghiệp”, hay nói cách khác, hội đủ điều kiện về năng lực, phẩm chất.
“Chẳng hạn như trường hợp ông Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư, được Ngân hàng Á Châu mời về làm chủ tịch HĐQT là một ví dụ”, ông Trung dẫn chứng.
Cũng theo ông Giản Tư Trung, chủ tịch công ty có hai nhiệm vụ chủ yếu. Một là quản trị và bảo vệ thể chế của doanh nghiệp, trong đó rường cột chính là điều lệ. Hay nói một cách cụ thể, công việc của chủ tịch cùng với HĐQT (hoặc HĐTV) là xác lập, hoàn thiện điều lệ của doanh nghiệp và làm cho tất cả mọi người phải tuân theo và trung thành với điều lệ ấy. Ví dụ, điều lệ đã quy định chức năng, nhiệm vụ của HĐQT, ban kiểm soát, giám đốc... thì các bộ phận đó phải thực hiện đúng như vậy, nếu sai sẽ bị “thổi còi”.
Nhiệm vụ tiếp theo của chủ tịch là quản trị tư tưởng, tức hệ giá trị của doanh nghiệp. Hệ giá trị rõ nhất của một công ty nằm ở văn hóa của doanh nghiệp đó. Ông Trung lấy ví dụ về trường hợp một tập đoàn nước ngoài khá lớn muốn đầu tư, mở rộng thị trường tại châu Phi. Để nhập khẩu thiết bị vào thị trường này công ty phải có khoản tiền lót tay khoảng 500.000 đô la Mỹ và nếu nhập được thì khả năng thành công là rất lớn. Thế nhưng, quy chế của tập đoàn lại cấm mọi hành vi hối lộ trong kinh doanh, đầu tư. Vì vấn đề liên quan đến quy chế nên tổng giám đốc đã phải xin phép HĐQT. Sau khi xem xét, chủ tịch và HĐQT không chấp nhận tiến hành thương vụ nói trên.
“Trong trường hợp này, chủ tịch và HĐQT đã thực hiện rất đúng chức trách của mình, đó là bảo vệ văn hóa kinh doanh không hối lộ mà doanh nghiệp đã xác lập, xây dựng. Điều này vô cùng quan trọng vì nếu HĐQT không ra tay, hành vi vi phạm pháp luật rất có thể bị phát hiện, khi đó doanh nghiệp sẽ phải trả giá đắt, thậm chí sụp đổ”, ông Trung nói.
Ngoài hai chức năng trên, chủ tịch công ty còn phải thực hiện một số công việc khác, trong đó công việc không kém phần quan trọng là quyết định chiến lược của công ty. “Nhiều người vẫn tranh cãi không biết chiến lược công ty do ai làm và ai quyết định. Theo tôi, người đề xuất chiến lược nhất thiết phải là giám đốc điều hành vì nhiệm vụ của họ là lãnh đạo, lèo lái công ty. Còn việc có chấp nhận chiến lược đó hay không mới là công việc của HĐQT hay HĐTV. Giám đốc điều hành cùng với toàn bộ phòng, ban, nhân viên công ty là người thực hiện chiến lược”, ông Trung giải thích.
NGUYÊN TẤN

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,