Chuyển đến nội dung chính

Làm sao quản trị doanh nghiệp hiệu quả?

(TBKTSG) - Chuyện vị chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc một doanh nghiệp tự ý đem tiền đi đầu tư chứng khoán và bị thua lỗ đã được nhắc đến nhiều gần đây. Không dừng lại ở khía cạnh phân tích hệ thống kiểm soát nội bộtrong doanh nghiệp, chúng ta thử bàn rộng đến tính hiệu quả của hệ thống quản trị doanh nghiệp.



Quản trị doanh nghiệp (Corporate Governance) có thể được hiểu nôm na là tổng hợp các hành vi quản trị gắn liền với đạo đức kinh doanh của ban giám đốc cho mục tiêu tạo nên sự giàu có cho cổ đông. Nó bao gồm việc ban giám đốc:
  • Quản lý và điều hành doanh nghiệp theo mục tiêu được đề ra.
  • Cân bằng giữa mục tiêu doanh nghiệp với mong đợi của xã hội.
  • Giải trình việc quản lý và điều hành của mình trước cổ đông trong các kỳ đại hội cổ đông thường niên.

Hệ thống quản trị doanh nghiệp hiệu quả có nghĩa là việc quản lý và điều hành doanh nghiệp theo cách mà tất cả quyền lợi của cổ đông luôn được bảo vệ. Các doanh nghiệp đại chúng của Việt Nam hầu hết vẫn còn xa lạ với khái niệm quản trị doanh nghiệp (Corporate Governance) và vì thế cũng chưa nắm hết những lợi ích mà hệ thống này mang lại.
Lợi ích đầu tiên là làm tăng khả năng tiếp cận thị trường vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam sau một thời gian tăng trưởng cao, nhu cầu cần thêm vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn. Họ có thể tiếp cận các quỹ đầu tư doanh nghiệp tư nhân, vay vốn từ ngân hàng hoặc gọi vốn góp từ các cổ đông hiện hữu. Trong khi Việt Nam hiện nay chưa có một hệ thống xếp hạng tín dụng (credit rating) hoàn chỉnh cho các nhà đầu tư tham khảo, các nhà đầu tư sẽ đánh giá rất cao những doanh nghiệp sở hữu một hệ thống quản trị doanh nghiệp hiệu quả.
Lợi ích thứ hai là nâng cao tính minh bạch trong quản lý và điều hành doanh nghiệp. Mọi hoạt động của ban giám đốc đều chịu sự giám sát và đôn đốc từ HĐQT thông qua một bộ phận kiểm toán độc lập (còn gọi là ban kiểm soát). Có minh bạch mới tạo ra sự tin tưởng cho cổ đông, nhà đầu tư, nhân viên và là động cơ thúc đẩy nhân viên làm việc và cống hiến cho doanh nghiệp.
Lợi ích thứ ba là giúp doanh nghiệp ngăn ngừa và phát hiện những gian lận tài chính (financial fraud) và các hành vi tham nhũng. Có như thế, báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp mới phản ánh trung thực, khách quan và làm cơ sở cho các đối tượng có liên quan (cổ đông, ngân hàng, quỹ đầu tư, nhà cung cấp, cơ quan quản lý nhà nước…) đánh giá đúng tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Lợi ích cuối cùng là giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro (risk management) giúp doanh nghiệp nhận diện kịp thời rủi ro, đánh giá được mức độ và phạm vi ảnh hưởng của rủi ro và chủ động đề ra các giải pháp để hạn chế chúng. Có rất nhiều rủi ro mà doanh nghiệp đang gặp phải như rủi ro về thị trường, rủi ro về tỷ giá, rủi ro về lạm phát, rủi ro về công nghệ, rủi ro sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính…
Trong một doanh nghiệp, quyền lực không nên tập trung hoàn toàn vào một cá nhân, vừa làm chủ tịch HĐQT lại kiêm luôn vai trò tổng giám đốc. Quản trị doanh nghiệp đòi hỏi việc điều hành HĐQT và quản lý doanh nghiệp nên là hai nhiệm vụ riêng biệt để tránh tình trạng quyền lực dồn hết vào một người.

Cũng ở khía cạnh này, một yêu cầu khác của quản trị doanh nghiệp là nên có sự cân bằng giữa số lượng thành viên quản trị điều hành (executive directors) và số lượng thành viên quản trị không điều hành (non-executive directors) trong HĐQT. Quá trình bổ nhiệm vị trí chủ tịch HĐQT phải được công khai, minh bạch và hàng năm HĐQT ngồi lại đánh giá hiệu quả công việc của ban giám đốc.
Mới đây, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) đã mời ông Trần Xuân Giá (nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và ông Lương Văn Tự (nguyên Thứ trưởng Bộ Thương mại) là hai thành viên độc lập, không sở hữu cổ phiếu của ngân hàng, giữ vị trí chủ tịch HĐQT và ủy viên HĐQT nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của cổ đông.
Kế đến là việc xác định rõ vai trò thực sự của ban kiểm soát trong doanh nghiệp. Ban kiểm soát trong các doanh nghiệp đại chúng nên là một bộ phận độc lập giúp HĐQT giám sát việc điều hành doanh nghiệp của ban giám đốc, và chỉ báo cáo trực tiếp lên HĐQT.
Thế nhưng trong thực tế, hầu hết các thành viên trong ban kiểm soát ở nhiều doanh nghiệp vừa thiếu năng lực chuyên môn lẫn kinh nghiệm thực tế. Họ thường là nhân viên cấp dưới của Ban giám đốc, thậm chí là nhân viên của phòng kế toán tài chính, vì thế mà mất đi tính độc lập, khách quan và hiệu quả của bộ phận này.
Hơn nữa, vai trò và nhiệm vụ của ban kiểm soát chưa thật rõ ràng và cụ thể. Ở khía cạnh này, một hệ thống quản trị doanh nghiệp hiệu quả sẽ yêu cầu HĐQT thành lập ban kiểm soát (hay còn gọi là ban kiểm toán - Audit committee) độc lập để giám sát hoạt động của ban giám đốc, làm cầu nối giữa HĐQT với ban giám đốc và cầu nối giữa doanh nghiệp với các cổ đông.
Người đứng đầu ban kiểm soát nên là thành viên quản trị không điều hành, có phẩm chất đạo đức tốt, uy tín, có năng lực và kinh nghiệm chuyên môn; thực hiện các công việc được chỉ định bởi HĐQT và trực tiếp báo cáo kết quả lên HĐQT.
Ban kiểm soát không chỉ gói gọn phạm vi công việc của mình trong lĩnh vực kế toán, tài chính. Thực tế, trách nhiệm chính của của ban kiểm soát là đảm bảo rằng doanh nghiệp tuân thủ theo pháp luật hiện hành và các nội quy, quy chế công ty được thực hiện (compliance audit), là nâng cao hiệu quả và năng suất của hoạt động sản xuất kinh doanh (operation audit) và là đảm bảo tính trung thực, chính xác của báo cáo tài chính.
Như vậy, công việc của ban kiểm soát xem ra rất nặng và chịu nhiều áp lực vì hầu như bao trùm tất cả mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua một hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ và hiệu quả. Hệ thống này được yêu cầu phải thường xuyên đánh giá, và ban kiểm soát phải đề xuất được các giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp hoàn thiện hơn.
Trong quản trị doanh nghiệp, ban kiểm soát được xem là bộ phận chính giúp HĐQT xây dựng một hệ thống quản trị doanh nghiệp hiệu quả nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao giá trị và hình ảnh của mình. Bài toán cho các doanh nghiệp Việt Nam bây giờ là làm sao “cân đo” giữa lợi ích của việc xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp hiệu quả và chi phí đầu tư cho việc này. Đây cũng là một trong những biểu hiện hội nhập kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
LÊ NGÔ LUÂN (Aureos Capital)


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,