Chuyển đến nội dung chính

Trình độ công nghệ của Việt Nam giữ vị trí cao trên thế giới

Ngày 9 tháng 01 năm 2010, Toyota Motor thông báo thu hồi một loạt các loại xe Camry, Altis, Vios, Forturner và Hiace tại các thị trường châu Âu, châu Mỹ và Nhật vì lỗi bị kẹt chân ga. Riêng Toyota Việt Nam thông báo các loại xe nêu trên được lắp ráp tại Việt Nam không bị lỗi mặc dù Toyota Việt Nam đang sản xuất theo dạng IKD với hầu hết các thiết bị chủ yếu đều nhập khẩu. Trình độ sản xuất ô tô Việt Nam đã vượt qua trình độ các nhà máy khác của Toyota tại châu Âu, châu Mỹ và Nhật Bản. Tin mừng đầu tiên!

Tiếp bước Toyota, một loạt các hãng ô tô trên thế giới như GM, Honda, Ford, KIA đều thu hồi một số loại xe do lỗi kỹ thuật nhưng các loại xe được sản xuất tại Việt nam đều không có lỗi và không cần thu hồi. Trình độ công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam tuy còn non (chỉ sản xuất được chưa đến 10% các thiết bị của xe) và còn trẻ...(con) (10 năm được ân hạn và bảo hộ nhưng không chịu lớn, chỉ thích nhập khẩu và chỉ xây dựng được vài nhà máy phụ trợ) nhưng đã "sản xuất" ra được các sản phẩm đạt chất lượng hơn hẳn các nhà máy sản xuất ô tô tại các nước phát triển. Tự hào thay trình độ công nghệ Việt Nam!!!

Gần đây cả thế giới chấn động trước việc nhà máy khai thác quặng bauxit tại Hungary bị bể bờ bao làm tràn bùn đỏ ra khu vực dân cư và có nguy cơ biến các làng mạc thành các khu vực chết. Nhưng một lần nữa, trình độ công nghệ Việt Nam đã thể hiện đẳng cấp cao của mình. Theo Ông Dương Văn Hòa, Phó Tổng Giám Đốc TKV, mặc dù cả hai nước đều sử dụng cùng một công nghệ "ướt" nhưng Việt Nam có khả năng hoàn nguyên bùn thành đất có thể sử dụng được sau 5 năm (2 năm xả, 3 năm lắng bùn hoàn nguyên). Điều này là một điểm chứng tỏ công nghệ Việt Nam hơn hẳn Hungary; mặc dù Hungary đã sản xuất bauxite hơn 100 năm và nằm trong khu vực có trình độ công nghệ thuộc dạng phát triển nhưng Hungary cũng chỉ chứa bùn đỏ trong các bể chứa và không có khả năng hoàn nguyên bùn thành đất có thể sử dụng được. Bùn đỏ do sản xuất bauxite của Hungary khi khô lại chỉ chứa các loại bụi độc hại, có khả năng gây ung thư.

Hơn nữa Việt Nam có trình độ quản lý và giám sát chặt chẽ hơn Hungary rất nhiều nên việc tích trữ bùn đỏ trong thung lũng ở khu vực cao nguyên cũng sẽ không gây nguy hiểm cho dân cư ở vùng đồng bằng Nam Trung Bộ như việc Hungary tích trữ bùn đỏ ở khu vực đồng bằng. Trong trường hợp khẩn cấp thì giải pháp là đóng cửa cống lại thì bùn đỏ sẽ bị giữ trong thung lũng mà không lan tỏa ra môi trường (với điều kiện là người đóng cửa đập có trách nhiệm và thương dân hơn trường hợp những người giữ cửa đập của Thủy điện Hố Hô vì tham tích nước cho thủy điện mà quên đi việc điều hòa lũ của mình để làm hại hàng vạn người phải chịu lũ lụt nặng nề ở cuối nguồn).

Như vậy với những dẫn chứng ở trên, Việt Nam đã có một trình độ cao về công nghệ trên thế giới. Theo ý kiến của cá nhân thì chính phủ Việt Nam nên hướng đến việc xuất khẩu công nghệ và chuyên viên ra thế giới. Đặc biệt trong thời điểm Hungary và cộng đồng châu Âu đang lo lắng về cách xử lý bùn đỏ thì Tập đoàn TKV, thay mặt nhà nước và nhân dân Việt Nam, nên cử một đoàn chuyên gia công nghệ sang hỗ trợ và giúp đỡ nước bạn để xử lý bùn đỏ thành đất hoàn nguyên có thể sử dụng được.

Nếu Việt Nam giúp đỡ Hungary xử lý được bùn đỏ sẽ đạt được nhiều mục tiêu lớn. Thứ nhất, Việt Nam có lợi là chứng minh được lý thuyết và rút kinh nghiệm trong việc xử lý bùn đỏ. Các chuyên viên làm được điều này sẽ giúp tăng sự tự tin của các thành viên Quốc hội khi ủng hộ dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên. Thứ hai, Việt Nam sẽ đứng vào hàng ngũ các nước có trình độ công nghệ tiên tiến, chấm dứt cảnh phải liên tục xin xỏ và nhờ các chuyên gia nước ngoài khi thực hiện các dự án. Hơn nữa, Việt Nam có thể xuất khẩu công nghệ cho các nước đang khai thác bauxite để thu ngoại tệ, làm giàu cho đất nước. Một tương lai tốt đẹp với một màu đỏ quạch đang chờ đợi chúng ta.

Tham khảo
http://nld.com.vn/20101013112727830p0c1014/bo-sung-bien-phap-an-toan-du-an-bauxite-tay-nguyen.htm

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,