Chuyển đến nội dung chính

Sức mạnh của truyền thông nội bộ

Nhân viên thì tụm năm tụm ba nói xấu sếp, còn sếp thì luôn phải giải quyết hết mâu thuẫn này đến khúc mắc khác, luôn miệng cho rằng anh em không hiểu mình.
Với vai trò của mình, lẽ ra người lãnh đạo doanh nghiệp cần tập trung vào chiến lược kinh doanh, mở rộng thị trường, thay vào đó họ lại phải bận bịu với bao chuyện nội bộ. Theo các chuyên gia, vấn đề ở đây là doanh nghiệp chưa biết khai thác sức mạnh của truyền thông nội bộ.
Trong chương trình “Cà phê sáng thứ Bảy” lần thứ hai, do Hội Doanh nghiệp trẻ TPHCM tổ chức, người dẫn chương trình yêu cầu mọi người xé một tờ giấy làm bốn mảnh. Người thì cẩn thận gấp lại xé cho gọn ghẽ, người thì cầm lên xé ngay lập tức, có người lại chần chừ không biết nên xé vuông hay tròn, dài hay ngắn, thậm chí có người còn để nguyên cho đến hết giờ.
Cuối cùng người dẫn chương trình giải thích trò chơi xé giấy tựa như vấn đề truyền thông điệp. Mệnh lệnh trong doanh nghiệp thường là một chiều từ trên xuống dưới. Khi thông điệp đưa ra không rõ ràng, kết quả sẽ rất khác nhau, vì ít khi nhân viên hỏi lại, ngại hỏi, hoặc không dám hỏi.
Ông Nguyễn Khắc Huy, Phó tổng giám đốc tập đoàn Kinh Đô, cho rằng việc truyền đi thông điệp nội bộ phải đồng bộ và thống nhất với chiến lược, mục đích của doanh nghiệp, và cần phải rõ ràng, đi đúng vào vấn đề, đúng đối tượng. Người truyền đạt cần thể hiện được ý đồ của mình, để biến thông điệp thành hành động của nhân viên, nhằm đạt được kết quả mong muốn.
Theo ông Huy, các doanh nghiệp cần định vị mình để thiết lập truyền thông nội bộ một cách phù hợp, không nên áp dụng rập khuôn theo các công ty khác, vì mỗi doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức và văn hóa khác nhau. Truyền thông nội bộ cần có sự tương tác đa chiều, xuyên suốt, không đơn thuần là những mệnh lệnh, vì mỗi cá nhân đều có nhu cầu được lắng nghe, được nói và được tôn trọng.
Ông Huy cũng cho rằng các nhà quản lý đừng quá chú trọng đến thông điệp mà quên đi thái độ, tình cảm của người tiếp nhận. Theo ông, mỗi nhân viên đều có mặt mạnh và mặt yếu, nên tập trung vào mặt mạnh của họ để tạo ra không khí, môi trường trong thông điệp nội bộ nhằm làm bật lên tính sáng tạo của tập thể, điều mà ông cam đoan sẽ nâng sức mạnh tổ chức lên nhiều lần.
Bà Lê Phương Phương, Giám đốc marketing Ngân hàng ANZ, kể: cách đây chưa lâu, khi tiếp nhận 10 sinh viên vào thực tập, một câu hỏi nảy ra trong giới lãnh đạo Ngân hàng ANZ là nếu tổ chức đào tạo và làm công tác truyền thông nội bộ tốt trong nhóm sinh viên này, thì kết quả mang lại sẽ như thế nào? Một kế hoạch chi tiết được vạch ra, với sự hỗ trợ của 25 nhân viên phòng kinh doanh, trong vòng ba tháng, nhóm sinh viên thực tập đã mang về cho ngân hàng khoản tiền gửi tiết kiệm 10 triệu đô la Mỹ.
Câu chuyện cho thấy một khi làm tốt công tác truyền thông nội bộ, làm cho người tiếp nhận thông điệp hiểu được họ cần làm gì, làm cho ai, cùng sự chuẩn bị đầy đủ, thì kết quả mang lại sẽ thật bất ngờ. Theo bà Phương, chính sự cởi mở và minh bạch là chìa khóa tạo nên sự thành công của truyền thông đa chiều. Ở ANZ, nhân viên chính là tài sản quý giá nhất, và truyền thông nội bộ trở thành một sợi chỉ xuyên suốt, được lập kế hoạch chi tiết hàng năm, với quan niệm nhân viên vui vẻ thì mới có khách hàng vui vẻ.
Dù doanh nghiệp trang bị đầy đủ điện thoại, e-mail, có trang web và cẩm nang nội bộ, nhưng theo bà Phương, những phương tiện đó vẫn không thể thay thế cho những cuộc gặp gỡ trực tiếp, mà ở đó nhân viên được phép nói không, được phép đề đạt ý kiến, đóng góp cho chiến lược của công ty, vừa giải tỏa được những vướng mắc trong công việc và trong cuộc sống.
Bà Phương cho rằng truyền thông nội bộ bắt đầu từ cấp trên, nhưng hiệu quả và quan trọng nhất là ở bộ phận quản lý cấp trung, vì việc ách tắc hay thông suốt trong vấn đề truyền thông nội bộ đều phụ thuộc vào bộ phận này.
Còn ông Đỗ Hòa, Giám đốc điều hành Công ty IME Việt Nam, cho rằng thông tin từ chiều này đến chiều kia dễ bị khúc xạ, biến dạng hoặc thông tin không đến nơi đến chốn, các bên nói sai những gì cần nói, nghĩ sai những gì được nghe. Chính sự méo mó thông tin sẽ gây sự ức chế, phát sinh ấm ức dẫn đến việc nhân viên nói xấu lãnh đạo, đồng nghiệp bằng những thông tin thêu dệt, làm suy yếu sức mạnh nội bộ.
Theo ông Hòa, lãnh đạo doanh nghiệp cần dành thời gian để tìm hiểu sự khác biệt giữa mình với nhân viên, tạo không khí để mọi người cảm thấy tin cậy, thoải mái khi trao đổi, tâm sự với nhau, để thấy rằng “không có gì đáng sợ khi chúng ta hiểu nhau”.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,