Chuyển đến nội dung chính

Những bí quyết trên bàn đàm phán

Tại cuộc tọa đàm “Những bí quyết trên bàn đàm phán”, do Thời báo Kinh tế Sài Gòn tổ chức hồi đầu tuần trước, Giáo sư Phan Văn Trường chia sẻ kinh nghiệm qua những cuộc đàm phán ở nhiều nơi trên thế giới. Câu chuyện của ông đã cuốn hút hơn 100 khách tham dự.

Ông Phan Văn Trường mở đầu buổi tọa đàm bằng câu chuyện về cuộc đàm phán lạ đời - đàm phán với một đứa trẻ sơ sinh. Ông kể: năm 2003, vợ chồng ông đón đứa cháu ngoại đầu lòng. Đứa trẻ cứ “oe oe” hoài mà không biết cháu khóc vì đói, khóc đòi ẵm hay cháu khó chịu vì bẩn! “Chỉ hai tiếng “oe oe” nghe nhức cả đầu khiến tôi muốn đàm phán với nó... Chưa bao giờ tôi gặp một đối tượng khó chịu như vậy trong thương thuyết. Và rõ ràng, vì tình thương, đứa trẻ ở thế tay trên”, ông nói.

Rồi ông rút ra những bài học nho nhỏ (trong đàm phán) từ câu chuyện trên, kiểu như: (i) không phải cứ có sức mạnh, nhiều lời, hay văn hóa cao là thắng; (ii) sự thành thật, không lừa dối cũng là sức mạnh; (iii) áp lực của con tim và tình thương rất lớn; (iv) kết cục hai bên đều vui... “Kết quả của cuộc đàm phán phải là một thành tựu mà hai bên và mọi người chờ đợi...”, ông nhắc.

Và, trước khi bắt đầu câu chuyện về đàm phán thương mại, ông Trường cũng nhắc lại nghệ thuật thương thuyết của người Việt Nam xưa qua bài ca dao về thằng Bờm. Theo ông, cả phú ông và thằng Bờm đều là những người rất giỏi trong thương thuyết - họ đều biết người biết ta. Rồi ông thừa nhận rằng, trong những cuộc đàm phán về thương mại cam go, đôi khi nguyên lý thương thuyết trong bài ca dao thằng Bờm đã giúp ông thành công.

Từng giữ chức vụ cao tại một số công ty lớn như Phó chủ tịch Alstom Power, Phó chủ tịch Alstom Transport (thuộc tập đoàn Alstom của Pháp), ông Trường có nhiều cơ hội giao thiệp và thực hiện các cuộc đàm phán khắp năm châu. Trong hơn 10 năm làm việc cho tập đoàn Alstom, ông từng đàm phán về dự án xây bảy nhà máy điện ở Iran (1989), dự án xây đường sắt cao tốc tại Hàn Quốc, dự án xây metro Santiago Chili, dự án xây metro Bangkok...

Ông kể về một cuộc đàm phán nhọc nhằn: đấu thầu dự án nhà máy điện lớn nhất thế giới Epon ở Hà Lan vào năm 1991. Năm 1989, ông giữ chức Phó chủ tịch Alstom Power và là trưởng đoàn đàm phán của Công ty Alstom trong cuộc tranh giành dự án Epon với Công ty Siemens của Đức. Trước khi bước vào cuộc cạnh tranh dự án có giá khoảng 4,5 tỉ franc này với người Đức, Alstom nhận được thông tin rằng Chính phủ Hà Lan đã ký nháy hợp đồng với Siemens.

Phải nói rằng, thời kỳ đó, Đức là quốc gia mạnh nhất trong khối thị trường chung châu Âu, và Siemens cùng Alstom đều nằm trong top những công ty sở hữu công nghệ xây dựng nhà máy điện. Nhưng ngặt một điều là dự án nhà máy điện Epon lại nằm trên ranh giới Hà Lan - Đức nên Siemens có lợi thế hiển nhiên. Tệ hơn, tâm lý thua cuộc lại có sẵn trong nội bộ của Alstom - không ai muốn mất công, mất thì giờ và mất mặt vì cuộc cạnh tranh không cân sức này.

Ông Trường nói: “Chúng tôi bắt đầu cuộc chiến bằng thế thua cuộc không có đường ra. Chủ tịch Hội đồng quản trị Alstom nặng nề với tôi: Đáng lẽ phải cấm đoàn của anh tiêu thêm tiền về dự án này… nhưng tôi cho anh đi vài chuyến nữa rồi sau đó bỏ nhé!”. Thế nhưng ông Trường đã tìm thấy những lý do để hy vọng đảo ngược thế cờ, trong đó có cả yếu tố tình cảm, lòng yêu nước, yếu tố lịch sử...

Rồi ngày đẹp trời cũng đến - sự kiện một nhà máy điện theo công nghệ của Đức bị nổ chính là “may mắn” giúp Alstom thắng thầu và ký được hợp đồng sau hai năm ở “thế yếu” trong cuộc thương thuyết với người Hà Lan.

Nói về chiến thắng này, ông Trường nhìn nhận rằng “có yếu tố may mắn”. Thế nhưng, nếu không có những nỗ lực, khôn khéo trong cách tiếp cận và đàm phán thì may mắn sẽ không bao giờ đến. Để có được thành công trong đàm phán, ông đã vận dụng rất nhiều bài học được rút ra từ kinh nghiệm cuộc đời, như: (i) nội ứng là vũ khí không gì mạnh hơn; (ii) họ chưa thắng thì mình chưa thua; (iii) khinh địch là tự tử; (iv) có đội ngũ đàm phán “cảm tử”, có chủ đích, chiến lược, kỷ luật và tinh thần quyết thắng sẽ gặp “vận may”...

Ông Trường cho rằng cuộc đàm phán có thể là một trận đấu tâm lý, một chuyến đi mạo hiểm, một việc trao đổi đơn giản... nhưng cũng có thể là một cuộc chơi. Tất nhiên, đàm phán là thuyết phục, để hai bên đồng ý trên một quan điểm, một việc làm, một dự án… Và để thành công, phải làm cho người ta chịu nghe mình nói, giải thích, chứng minh... để rồi họ chịu giúp mình đi đến kết quả mình mong muốn; làm cho họ tin tưởng rằng mình cũng có thể đem lại cho họ kết quả họ nghĩ là tương đương.

Vì vậy, theo ông Trường, trong đàm phán, những người đại diện hai bên phải biết nghe và phải nắm vững lời lẽ, ý nghĩ của mình - đàm phán trước hết là nghe và hiểu được những gì phía bên kia muốn mình hiểu và nói cho đích xác và đơn giản để bên kia hiểu những gì mình muốn họ hiểu. 

Với kinh nghiệm của mình, ông Trường cho rằng, đàm phán rất khó với những người thiếu văn hóa - thích ăn thua đủ vì tự ái chứ không chú trọng đến kết quả có lợi cho đôi bên. Đàm phán với những người không có mục tiêu, có thành kiến về đối tác... cũng rất khó. Đàm phán dễ thành công hơn với những đối tác có kinh nghiệm, biết rõ giá trị của các yếu tố đàm phán, biết tại sao hai bên ngồi với nhau...

Vậy bí quyết đàm phán là gì? Ông Trường trả lời rằng, đó là biết trước được kết quả của cuộc đàm phán - biết mình biết ta - đánh giá được tất cả những đòi hỏi của đôi bên. 

Đó là tìm được những kịch bản có lợi cho đôi bên, biết không tiếc nuối khi đánh đổi, không sợ hớ và quý những gì người ta nhường. Đó là nắm vững kỹ thuật trình bày trên nội dung và hình thức cũng như hiểu biết tối thiểu văn hóa của đối tác. Đó là không bao giờ để đối tác cảm thấy thua/mất mặt/hớ/trật… Đó là không ngần ngại hỏi đi hỏi lại những gì khó hiểu. Đó là biết “rà” như kiểu phú ông “rà” ý tứ của thằng Bờm hay thằng Bờm biết nhìn tương lai xa cho thương vụ ban đầu. Đó là khi gặp những cuộc đàm phán khó, cần biết sử dụng những yếu tố trung gian...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,