Chuyển đến nội dung chính

Thông tin có đến đúng lúc bạn cần?

Bạn thực sự cần có được thông tin nhanh như thế nào? Cùng với Jim Hagemann Snabe, đồng CEO của SAP tôi đã thực hiện một nghiên cứu về những loại thông tin các nhà quản lý cần và họ cần có những thông tin đó nhanh như thế nào.
Tôi phỏng vấn cả nhân viên cấp cao (15 cựu hoặc đương nhiệm CEO hoặc trưởng các đơn vị kinh doanh) cũng như các nhà quản lý chịu trách nhiệm về việc cung cấp thông tin. Chúng tôi cũng tiến hành khảo sát 302 nhân viên cấp cao tại các công ty lớn của Mỹ về tốc độ họ nhận được thông tin họ cần và mong muốn của họ đối với việc có được thông tinh nhanh hơn.
Không có gì ngạc nhiên, rất nhiều người (hầu như là tất cả) nói họ muốn có thông tin nhanh hơn. Nhưng cũng có những sự khác biệt lớn mà theo đó họ muốn có những loại thông tin nhất định với tốc độ nhanh hơn và dưới những điều kiện kinh doanh nào thì tốc độ của việc có thông tin nhanh hơn là quan trọng và cần thiết. Và bởi vì mỗi nhân viên cấp cao được phỏng vấn lại có những nhu cầu và mong muốn khác nhau về loại hình và tần suất thông tin nên cũng cần đòi hỏi sự linh hoạt lớn hơn.
Có rất nhiều lý  do tại sao thông tin lại đến một cách chậm chạp và kém linh hoạt. Một số là do những nguyên nhân kinh doanh hợp lý - ví dụ như nhu cầu tổng hợp và hợp nhất thông tin xuyên suốt các đơn vị kinh doanh hoặc các liên kết với quá trình kinh doanh chịu ảnh hưởng từ bên ngoài như báo cáo hiện trạng tài chính. Những yếu tố khác có thể kể đến như công nghệ vốn không cho phép việc tiếp cận và trưng bày thông tin một cách nhanh chóng. Trong bài đăng tiếp theo, tôi sẽ thảo luận việc làm thế nào để có thể gỡ bỏ những trở ngại này. Trong bài đăng này, tôi sẽ chỉ tập trung vào những loại thông tin nào thực sự cần phải được có nhanh chóng và linh hoạt. Cũng cần đến công sức để thúc đẩy nhanh thông tin vì vậy việc biết được ưu tiên của bạn là gì rất hữu ích.
Những dạng thông tin quan trọng nhất được xếp theo từng phần theo ngành nghề. Với những công ty định hướng kỹ thuật, thì thông tin về phát triển sản phẩm là cực kỳ quan trọng. Tại chuỗi cửa hàng bán lẻ quần áo, loại thông tin quan trọng nhất chính là mức hàng tồn kho. Công này đã làm việc trong nhiều năm để có thể có được những thông tin này một cách chính xác và để các nhà quản lý có thể dễ dàng tiếp cận được chúng. Trong một doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến, ví dụ một công ty quà tặng trực tuyến mà chúng tôi đã phỏng vấn, có chu kỳ thời gian nhanh hơn hầu hết các doanh nghiệp khác và thái độ hành vi trực tuyến của khách hàng là loại thông tin quan trọng nhất. Người truy cập, thời gian truy cập, đối thoại và những lệnh bị bỏ qua là những mảng thông tin quan trọng.
Không ngạc nhiên gì  khi hiện trạng nền kinh tế (cũng như liệu công ty có đang trải qua khủng hoảng hay không) là nhân tố quyết định chủ chốt trong nhu cầu thông tin của các tổ chức. Trong nền kinh tế suy giảm, các giám đốc muốn thông tin về những khoản phải thu và phải trả (50% đề cập đến loại thông tin này) cũng như về ngân sách, chi tiêu và chi phí (cũng 50%), luồng tiền (47%), rủi ro hoạt động và chiến lược (40%), hiệu suất và hiệu quả của nhân viên (36%) nhanh hơn. Trong nền kinh tế phát triển, các giám đốc lại nói họ cần có những thông tin về sự hài lòng của nhân viên (27%), thị phần (13%), mức hàng tồn kho (12%), dữ liệu về đối tác và nhà cung cấp (12%) và hoạch định tương lai (12%) nhanh hơn.
Cần lưu ý rằng những con số phần trăm trên khi nền kinh tế suy giảm lớn hơn khi nền kinh tế phát triển. Với một số loại thông tin như chất lượng, thị phần và những thông tin về đối thủ cạnh tranh thì về cơ bản ít có sự khác biệt giữa những điều kiện kinh tế.
Chu kỳ thời gian mong muốn cho một loại thông tin cụ thể khác nhau theo ngành nghề và các yếu tố khác. Ví dụ, bán hàng cần được quản lý theo giờ tại những công ty quà tặng trực tuyến chúng tôi phỏng vấn và theo tuần với những công ty sở hữu và cho thuê tháp sóng điện thoại và theo tháng cho những thương vụ kinh doanh tua bin chạy bằng hơi nước tại một công ty công nghiệp (có thể chỉ có 12 giao dịch một năm).
Nhưng những người tham gia nghiên cứu thuộc các ngành chỉ rõ rằng một số loại thông tin cần phải có nhanh hơn các loại thông tin khác. Theo khía cạnh loại thông tin các giám đốc cấp cao gần đây nhận được, những thông tin đến nhanh nhất (kết hợp thời gian thực tế và tần suất ngày) là doanh thu bán hàng và tin tức về đối thủ và khách hàng. Những thông tin đến chậm nhất (ví dụ là những thông tin nhận theo quý hoặc năm) là sự hài lòng của nhân viên, thị phần, sự hài lòng của khách hàng và hoạch định tương lai.
Theo khía cạnh thông tin mà những người trả lời khảo sát muốn có (ngược lại với những gì họ nhận được) những loại thông tin có tần suất mong muốn cao nhất là thông tin về đối thủ cạnh tranh, doanh thu bán hàng và thông tin về khách hàng. Những loại thông tin không cần nhanh là thị phần, sự hài lòng của nhân viên, hoạch định tương lai và năng suất và hiệu quả của nhân viên.
Có thể một trong số những điều phát hiện ngạc nhiên nhất trong khảo sát là không một ai muốn thông tin của họ nhanh hơn. Phần trăm những người trả lời muốn thông tin của họ nhanh hơn với tốc độ nhận được thông tin gần đây của họ giao động từ thấp là chỉ khoảng 36% đối với thông tin về hàng tồn kho và 38% đối với thông tin về đối thủ cạnh tranh đến cao là 61% về thông tin về sự hài lòng của khách hàng và 71% đối với sự hài lòng của nhân viên. Những kết quả này cho thấy chẳng ai có mong muốn tất cả những thông tin đều có sẵn trong thực tế cho dù điều đó là khả thi.
Tuần tới tôi sẽ  mô tả việc các tổ chức có thể  làm để thúc đẩy nhanh tốc độc có được những thông tin thực sự quan trọng. Cho đến lúc đó thì các bạn hãy kiên nhẫn một chút!
- Bài viết của Tom Davenport trên Harvard Business Publishing -

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,