Chuyển đến nội dung chính

Tiếp thị số: hiểu để làm đúng


(TBKTSG) - Năm 2010, Việt Nam có hơn 30 triệu người sử dụng Internet. Đó là con số đáng quan tâm cho những doanh nghiệp muốn sử dụng các phương tiện truyền thông kỹ thuật số cho chiến lược tiếp thị của mình.
Việc tiếp thị qua phương tiện truyền thông xã hội, tiếp thị qua công cụ tìm kiếm, qua e-mail, qua điện thoại di động... ngày càng trở nên thông dụng với những người xây dựng chiến lược tiếp thị.
Theo Wikipedia, “tiếp thị số là hoạt động xúc tiến khuếch trương thương hiệu sử dụng các hình thức kênh quảng cáo số đến với người tiêu dùng...”.
Với định nghĩa truyền thống này, các hình thức tiếp thị số thông dụng bao gồm: quảng cáo bảng hiệu, quảng cáo trưng bày, quan hệ công chúng trực tuyến, tối ưu hóa công cụ tìm kiếm, tiếp thị công cụ tìm kiếm trả tiền theo nhấp chuột, tiếp thị phương tiện truyền thông xã hội, tiếp thị bằng trang web, điện thoại di động, e-mail...
Tuy nhiên để hoạt động tiếp thị số thật sự hiệu quả và đi vào tâm trí của khách hàng, các thông điệp truyền thông số và công cụ sử dụng phải gần với cuộc sống. Muốn vậy doanh nghiệp phải hiểu rõ khái niệm cuộc sống số trong bối cảnh sự phát triển nhảy vọt về công nghệ số đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của con người trên toàn cầu.
Các thế hệ khách hàng trong cuộc sống số
Với cột mốc 1946 đến nay, chúng ta có thể chia ra bốn nhóm khách hàng. Nhóm khách hàng được sinh ra trong những năm từ 1946-1960, thế hệ khách hàng này quan tâm đến thế giới, xã hội, nhưng cũng dành nhiều thời gian để lên mạng Internet, đặc biệt là ở các nước phát triển.
Nhóm khách hàng thuộc thế hệ 7X (từ 1970-1980), thế hệ này muốn tạo sự khác biệt rõ nét, muốn tìm các dữ kiện, tập trung cho gia đình, độc lập trong tư duy và hành động, khi cho hoặc nhận thông tin đều muốn biết sự khác biệt.
Nhóm khách hàng 8X (từ 1980-1990), thế hệ này luôn muốn thể hiện quan điểm toàn cầu và là công dân toàn cầu, không quan tâm đến biên giới quốc gia gắn kết xã hội trực tuyến lẫn ngoại tuyến.
Và cuối cùng là thế hệ sinh ra vào thời điểm bùng nổ của công nghệ số. Đây là một thế hệ khách hàng mới với những đặc điểm tương đối khác biệt so với các thế hệ trước đây.
Trong một cuộc hội thảo gần đây về tiếp thị số, các doanh nhân đã bày tỏ một số đặc điểm mà họ quan sát được ở nhóm khách hàng này. Tuy chưa phản ảnh đầy đủ nhưng cũng xin liệt kê một vài đặc điểm của thế hệ khách hàng này như sau: nhanh nhẹn, năng động; sử dụng thành thạo kỹ thuật số; khai thác công cụ mạng xã hội; có tiềm năng kinh tế do sống trong giai đoạn kinh tế phát triển; nhu cầu chất lượng cuộc sống cao; thích hàng hiệu; kỳ vọng của bố mẹ; suy nghĩ trưởng thành sớm (tâm sinh lý, xã hội, mạnh dạn); thích nổi bật; ăn mặc thoải mái hơn; thích đột phá; thích đưa các hình ảnh về cá nhân trên mạng; hay thay đổi công nghệ mới; thích cập nhật thông tin; hiếu thắng và chứng tỏ bản thân; không sợ thất bại; ít hiểu biết về lịch sử; có thể tạo cộng đồng trên mạng nhanh..
Với việc phân nhóm trên, rõ ràng mỗi thế hệ khách hàng có những đặc trưng riêng và cuộc sống số của họ cũng có phần khác biệt. Chính vì vậy, một chiến lược tiếp thị số dưới dạng “một chiến lược phù hợp cho tất cả các thế hệ (“One fits all”) gặp thất bại là điều khó tránh khỏi.
Để chiến lược tiếp thị số hiệu quả thì việc nắm bắt, thấu hiểu khách hàng trong cuộc sống số của họ là một trong những điều kiện tiên quyết. Cần hiểu rõ sản phẩm và dịch vụ của công ty bạn hướng đến phân khúc khách hàng trong thế hệ nào, đặc trưng số của họ, để từ đó định vị và xây dựng chiến lược truyền thông số phù hợp với mục tiêu đã đề ra.
Hành vi mua hàng và xu hướng tiếp thị trong thời đại công nghệ số
Cuộc sống số cũng đã làm thay đổi hành vi mua hàng của chúng ta. Nếu như trước đây người làm công tác tiếp thị quen với quy trình AIDA (Attention - chú ý, Interest - quan tâm, Desire - khao khát, Action - hành động), thì nay mô hình mới cho tiếp thị số được đề nghị là AISAS (Attention - chú ý, Interest - quan tâm, Search - tìm kiếm, Action - hành động, Share - chia sẻ).
Ví dụ mô hình mua một chiếc máy tính xách tay của khách hàng ngày nay là lưu ý đến các thương hiệu nổi tiếng; bước kế tiếp là sẽ truy cập vào mạng Internet để tìm kiếm thông tin hoặc truy cập vào các mạng xã hội để tham khảo ý kiến; sau đó khách hàng sẽ đến các trung tâm điện máy hoặc các cửa hàng trên mạng để mua sản phẩm; khi đã có sản phẩm khách hàng sẽ trải nghiệm và chia sẻ kinh nghiệm thông qua mạng xã hội hoặc các công cụ số.
Thế giới ngày càng phẳng hơn với sự phát triển của công nghệ số. Khách hàng và người tiêu dùng Việt Nam ngày càng hiểu biết và thông thạo các công nghệ số. Dưới đây là dự báo các xu hướng tiếp thị số cho năm 2011 bao gồm: ngân sách tiếp thị sẽ tiếp tục chuyển sang trực tuyến; tiếp thị phương tiện truyền thông xã hội sẽ trưởng thành; tiếp thị di động sẽ cất cánh; tiếp thị cá nhân hóa, điều chỉnh thông điệp gửi đến từng cá nhân; video xã hội là công cụ tiếp thị đang tăng trưởng; tối ưu hóa tiếp thị qua kênh công cụ tìm kiếm; sự hỗ trợ trực tuyến từ các trang web trong việc kết nối người mua với các chuyên gia...
Nguyễn Đăng Duy Nhất
(*)Giám đốc điều hành Global Elites Consultancy - SEA

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,