Chuyển đến nội dung chính

Độc nhất hay tốt nhất?


(TBKTSG) - Trong buổi hội thảo “Cạnh tranh và chiến lược công ty ngày nay” vừa được tổ chức tại Hà Nội vào cuối tháng 11, Giáo sư Michael Porter cho rằng xu hướng tự nhiên của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp là mong muốn làm sao trở thành công ty tốt nhất trong lĩnh vực của mình - một công ty đóng tàu tốt nhất, một ngân hàng tốt nhất, một công ty thực phẩm tốt nhất…Thế nhưng đó lại là một cái bẫy.
Ông lập luận rằng trong cạnh tranh, không có công ty nào là tốt nhất trong bất kỳ ngành nào. Công ty tốt nhất phụ thuộc vào nhu cầu mà người tiêu dùng muốn đáp ứng, trong khi nhu cầu thì rất khác nhau. Do đó, khi tính đến chiến lược, chúng ta không chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để trở thành tốt nhất mà nên nghĩ sao để mình trở thành độc nhất…
Vậy thì gắn với bối cảnh kinh doanh trong thời điểm hiện tại, liệu các doanh nghiệp Việt Nam có nên từ bỏ mục tiêu trở thành công ty tốt nhất để trở nên độc nhất?
Trước hết, hãy thử đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Độc nhất để làm gì?”. Rõ ràng độc nhất là để cạnh tranh. Mà muốn cạnh tranh thì sự độc nhất phải đem lại giá trị khác biệt và vượt trội cho khách hàng (tất nhiên là nhóm khách hàng mục tiêu), chứ không phải chỉ nhằm mục đích là khác người. Nếu độc nhất chỉ để khác người, mà không tạo ra giá trị gì đặc biệt cho khách hàng thì sự độc nhất sẽ trở thành kỳ cục, không giống ai, và lẽ đương nhiên, sẽ không được ai chấp nhận.
Một khi sự độc nhất đem lại giá trị vượt trội cho nhóm khách hàng mục tiêu, nó đã trở thành “tốt nhất” đối với nhóm khách hàng mục tiêu đó (so với các đối thủ). Như vậy “độc nhất” cuối cùng rồi cũng để trở thành “tốt nhất” trong cảm nhận của khách hàng, chứ không phải để trở thành xa lạ trong mắt họ.
Dịch vụ massage bằng cá xuất hiện ở Việt Nam trong một vài năm gần đây là một ví dụ về sự độc đáo nhưng không mấy thành công vì không phải là loại hình massage tốt nhất và không đem lại giá trị vượt trội nào so với các loại hình massage khác. Siêu thị “mười ngàn” từng là một siêu thị độc nhất, chưa từng có, với tất cả mọi mặt hàng đều có giá 10.000 đồng, nhưng cũng không làm nên tên tuổi gì vì không ai xem nó là tốt nhất.
Thứ hai, liệu doanh nghiệp có thể chiếm giữ vị trí độc nhất mãi không? Chắc chắn là không. Một khi có nhiều đối thủ “ăn theo”, bắt chước, ta sẽ không còn là người độc nhất nữa. Khi đó, doanh nghiệp phải cạnh tranh như thế nào? Nếu không muốn phải đi tìm cái độc nhất khác (vốn không đơn giản) thì còn cách nào hơn là phải phấn đấu để trở thành tốt nhất (hoặc gần như tốt nhất) trong số tất cả những người cùng tham gia cuộc chơi? Như vậy, một lần nữa độc nhất cuối cùng cũng phải trở thành “tốt nhất”.
Câu chuyện kinh doanh taxi ở Việt Nam là ví dụ về trường hợp sự độc nhất không thể giữ được, doanh nghiệp bắt buộc phải phấn đấu để trở thành tốt nhất để cạnh tranh.
Thứ ba, có dễ dàng để trở thành độc nhất hay không? Câu trả lời có lẽ là không! Để trở thành độc nhất, doanh nghiệp phải là người tìm kiếm, mở đường, khai phá “vùng đất mới”. Mà đầu tư cho việc khai phá, mở đường thường là rất lớn và phải đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro. Sự thất bại, chắc chắn sẽ kèm theo thiệt hại nặng nề so với việc ăn theo, bắt chước. Chiến lược “men theo luống cày” từng giúp khá nhiều doanh nghiệp thành công khi họ biết tận dụng những lợi thế của kẻ đi sau; trong khi không ít người mở đường, khai phá lại tụt hậu và thất bại.
Như vậy, sự “độc nhất” không hoàn toàn đồng nghĩa với sự thành công, trong khi sự “tốt nhất” ít nhiều sẽ đem lại thành công cho doanh nghiệp. Cần phải nhắc lại, tốt nhất, hay độc nhất cũng đều nhắm vào một nhóm khách hàng mục tiêu nào đó, chứ không phải cho mọi khách hàng.
Thứ tư, bản thân sự tốt nhất cũng là một dạng độc nhất. Tốt nhất là độc nhất vì không có ai làm được như mình. Một ngân hàng có cung cách phục vụ tốt nhất là một ngân hàng có thế mạnh độc nhất tại thời điểm đó (vì không có ngân hàng nào khác được đánh giá như vậy). Một sân bay được đánh giá tổng thể là tốt nhất cũng là một sân bay có thế mạnh độc nhất so với các sân bay khác có cùng các tiêu chí đánh giá.
Không thể phủ nhận, độc nhất (hay khác biệt) để cạnh tranh là bài học kinh điển, ai cũng phải thuộc lòng. Nhưng đó cũng chỉ là lời khuyên chung và không gắn liền với từng doanh nghiệp cụ thể, từng bối cảnh kinh doanh cụ thể. Chăm chút cho sản phẩm, dịch vụ mình đang có, làm thật tốt những gì mình đang làm để trở thành tốt nhất trong cảm nhận của khách hàng cũng sẽ giúp doanh nghiệp thành công, chứ không nhất thiết cứ phải mạo hiểm tìm kiếm sự khác biệt, độc đáo nào đó mà mình không có thế mạnh.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Các nguyên tắc của COBIT 5

Nguyên tắc thứ 1: Đáp ứng nhu cầu các bên liên quan (Meeting stakeholder needs) Doanh nghiệp tạo ra giá trị cho các bên liên quan bằng việc duy trì cân bằng giữa lợi ích, rủi ro và nguồn lực.  COBIT 5 cung cấp các quy trình cần thiết và các điều kiện cần thiết (enabler) nhằm hỗ trợ việc tạo ra các giá trị kinh doanh thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin. Mỗi doanh nghiệp khác nhau sẽ có các mục tiêu khác nhau nên một doanh nghiệp có thể tùy biến COBIT 5 để phù hợp với bối cảnh của doanh nghiệp thông qua mục tiêu kinh doanh, biến đổi từ mục tiêu kinh doanh chung thành các mục tiêu chi tiết mà có thể quản lý được, có các đặc tả chi tiết và ánh xạ các mục tiêu đó vào các quy trình, các thực hành của mục tiêu CNTT. Các tầng mục tiêu (goals cascade) đạt được thông qua bốn bước: Bước 1: Định hướng của các bên liên quan ảnh hưởng đến nhu cầu của các bên liên quan. Bước 2: Nhu cầu của các bên liên quan tác động vào mục tiêu của doanh nghiệp.   Nhu cầu của các bên liên

Quản trị công nghệ thông tin

"Theo định nghĩa của OCED, quản trị doanh nghiệp (corporate governance) bao gồm các quy trình để định hướng, kiểm soát và lãnh đạo tổ chức. Quản trị doanh nghiệp bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm, quản lý, lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức." Theo Principles of Corporate Governance,  OCED. "Quản trị công nghệ thông tin (IT Governance - ITG) là trách nhiệm của Ban Giám Đốc và các nhà quản lý. Quản trị công nghệ thông tin là một phần của quản trị doanh nghiệp và bao gồm cấu trúc lãnh đạo, cấu trúc tổ chức và các quy trình để đảm bảo công nghệ thông tin của tổ chức được duy trì và mở rộng theo các định hướng chiến lược và mục tiêu của tổ chức'' Theo Board Briefing on IT Governance, 2 nd  Edition,  IT Governance Institute Thông tin là một nguồn lực quan trọng của tất cả các doanh nghiệp và công nghệ giữ một vai trò cũng quan trọng từ khi thông tin được hình thành đến khi thông tin bị phá hủy.  Công nghệ thông tin ngày càng phát triển và trở nên phổ biến hơn

MỤC 2.1: TẠO GIÁ TRỊ (CREATING VALUE)

Các dự án tồn tại trong một hệ thống lớn hơn, chẳng hạn như một cơ quan chính phủ, tổ chức hoặc thỏa thuận hợp đồng. Để ngắn gọn, tiêu chuẩn này sử dụng thuật ngữ tổ chức (organization) khi đề cập đến các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp, các thỏa thuận hợp đồng, liên doanh và các thỏa thuận khác. Tổ chức tạo ra giá trị cho các bên liên quan. Ví dụ về các cách mà các dự án tạo ra giá trị bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Tạo sản phẩm, dịch vụ hoặc kết quả mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc người dùng cuối; Tạo ra những đóng góp tích cực cho xã hội hoặc môi trường; Cải thiện hiệu quả, năng suất, hiệu quả hoặc khả năng đáp ứng; Thực hiện các thay đổi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi tổ chức sang trạng thái mong muốn trong tương lai; và Duy trì các lợi ích được kích hoạt bởi các chương trình, dự án hoặc hoạt động kinh doanh trước đó. 2.1.1 CÁC THÀNH PHẦN CUNG CẤP GIÁ TRỊ (VALUE DELIVERY) Có nhiều thành phần khác nhau, chẳng hạn như danh mục đầu tư, chương trình,