Đặc điểm tính cách cá nhân được định nghĩa là một mô hình tương đối gồm suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của một con người để phân biệt giữa người này với người khác. Theo các học thuyết tâm lý học về tính cách
cá nhân hiện đại và các cuộc nghiên cứu trên quy mô lớn, lâu dài thì tính cách cá nhân được thể hiện rất sớm và
tiếp tục thay đổi theo tuổi đời của cá nhân. Đặc điểm tính cách của người trưởng thành được cho là đã phát triển từ khi còn
là trẻ sơ sinh; có nghĩa là sự khác biệt cá nhân trong khuynh hướng
và hành vi đã xuất hiện từ rất sớm trong cuộc sống của cá nhân đó, trước khi có sự phát triển ngôn ngữ hay phát triển ý thức. Đặc điểm tính cách cá nhân bị
ảnh hưởng bởi ba nhân tố là (i) Gien di
truyền, (ii) Môi trường sống, (iii) Sự tương
tác giữa gien di truyền và môi trường sống. Hiện nay mô hình 'Năm yếu tố của tính cách cá nhân' đã tìm thấy được cách ánh xạ các khía cạnh của tính
khí cá nhân từ tuổi thơ sẽ hình thành các tính khi khi trưởng thành ở năm yếu tố gồm :
- Mở ra với kinh nghiệm (Sáng tạo, tò mò đối nghịch với Phù hợp, thận trọng)
- Sự tận tâm (Hiệu quả, có tính tổ chức đối nghịch với Sự dễ dàng, bất cần)
- Hướng ngoại (Hướng ra bên ngoài, tràn đầy năng lượng đối nghịch với Hướng vào bên trong, bảo lưu)
- Thân thiện hợp tác (Hữu nghị, có lòng trắc ẩn đối kháng với Phân tích, chia tách)
- Thần kinh (Nhạy cảm, dễ nóng giận đối kháng với an toàn, tự tin)
Theo
lý thuyết các giai đoạn phát triển tâm lý của Erik Erikson
thì có tám giai đoạn phát triển tâm lý từ sơ sinh đến cuối tuổi trưởng thành. Trong mỗi giai đoạn, con người phải đối mặt và hy vọng thành công với các thách thức trong
cuộc sống. Mỗi giai đoạn được xây dựng dựa trên sự thành công của giai đoạn trước đó, những thách thức trong từng giai đoạn
nếu chưa được giải quyết có thể xuất hiện trở lại như là các vấn đề trong tương lai. Tuy nhiên sự hiểu biết rõ ràng một giai đoạn là không bắt buộc để có thể tiếp tục ở giai đoạn kế
tiếp. Lý thuyết các giai đoạn phát triển tâm lý của Erik Erikson mô tả
một sự phát triển cá nhân thông qua 8 giai đoạn dựa vào khả năng cân bằng năng lực sinh học của cá nhân với
các yếu tố môi trường, xã hội. Mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi các khủng hoảng tâm lý với hai thế lực xung đột chính. Nếu một cá nhân thành công trong việc dung hòa các thế lực, cá nhân đó sẽ thể hiện các đức tình tương ứng. Ví dụ, nếu một đứa trẻ bước vào giai đoạn trẻ mới biết đi với sự tự tin hơn
sự nghi ngờ, đứa trẻ sẽ mang đức tính này trong phần còn lại của cuộc đời. Tám giai đoạn phát triển tâm lý của Erik Erikson gồm:
Tuổi trung bình
|
Đức tính
|
Khủng hoảng tâm lý
|
Mối quan hệ
|
Câu
hỏi tồn tại
|
Ví
dụ
|
0 - 2
|
Hy
vọng
|
Tin
tưởng so với Mất tin tưởng
|
Mẹ
|
Tôi
có thể tin tưởng thế giới này?
|
Ăn
|
2 - 4
|
Muốn
|
Tư
tịn so với Xấu hổ, Nghi ngờ
|
Cha
mẹ
|
Nó
tốt đối với
con?
|
Tự mặc quần áo
|
4 - 6
|
Mục đích
|
Sáng
kiến so với Tội lỗi
|
Gia đình
|
Nó
tốt đối với
con để làm,
để di chuyển, để hành động
|
Sử dụng công cụ tạo ra các tác phẩm nghệ thuật
|
5 - 12
|
Năng
lực
|
Công
việc so với Mặc cảm
|
Láng
giềng, Trường
học
|
Tôi
có thể làm điều này với những người này hoặc những vật này?
|
Học ở trường, Chơi thể thao
|
13 - 19
|
Trung thành
|
Bản sắc cá nhân so với
Vai trò bị lẫn lộn
|
Cá
nhân với các nhân, Vai trò trong
quan hệ
|
Tôi
là ai? Tôi có thể là ai?
|
Mối quan hệ xã hội
|
20 - 39
|
Yêu thương
|
Hợp tác so với Cô lập
|
Bạn bè, đối tác, người yêu
|
Tôi
có thể yêu
|
Mối quan hệ lãng mạn đến mức nào
|
40 - 64
|
Cẩn trọng
|
Sáng
tạo so với Trì trệ
|
Gia
đình, đồng nghiệp
|
Tôi
có thể đo đếm
cuộc đời mình
|
Công
việc
|
65
- Chết
|
Khôn ngoan
|
Bản ngã so với Nỗi tuyệt
vọng
|
Con
người
|
Có
có làm được như tôi?
|
Phản ảnh cuộc sống
|
Với lý thuyết các giai đoạn phát triển tâm lý của Erik Erikson, việc giáo dục nghề nghiệp tập trung cho việc phát triển tâm lý trong
giai đoạn từ 13 đến 64 tuổi. Giai đoạn này cần tập trung phát
triển các tính cách cá nhân gồm bản sắc cá nhân, sự hợp tác và sự sáng tạo. Việc giáo dục nghề nghiệp cần nhận dạng được điểm mạnh, điểm yếu và sự độc đáo của từng cá nhân để phát triển nghề nghiệp phù hợp với
từng tính cách cá nhân, bên cạnh đó giáo dục nghề nghiệp cũng cần
phải xây dựng được môi trường thân thiện, hợp tác giữa các tính cách cá nhân khác nhau trong một tổ
chức học tập.
Nhận xét
Đăng nhận xét